Ngải cứu là một trong những phương pháp điều trị độc đáo của y học cổ truyền, là sự kết hợp giữa phương thức dùng thuốc và không dùng thuốc.
- Kiểm soát tăng huyết áp bằng những loại hoa rất có hiệu quả
- YHCT bật mí 9 loại thảo dược giúp giảm đau bụng kinh hiệu quả
- 4 bài thuốc Đông Y chữa bệnh viêm lộ tuyến cổ tử cung hiệu quả
Tác dụng ngải cứu trong Y học cổ truyền
Tác dụng ngải cứu trong Y học cổ truyền
Theo nghiêm cứu từ các Y sĩ Y học cổ truyền về cây thuốc – vị thuốc chia sẽ về tác dụng của ngải cứu như sau:
Phù dương cố thoát:
Dương khí hạ hãm , dương khí bất túc. Lâm sàng trị liệu dương khí hư, thoát chứng và dương khí hạ hãm dẫn đến di niệu, sa tử cung, sa trực tràng, đới hạ, băng lậu, tiêu chảy mạn.
Ôn kinh tán hàn:
Lâm sàng thường dùng trị liệu hàn ngưng huyết trệ, kinh bế, thống kinh, vị quản thống, hàn sán phúc thống…
Tiêu ứ tán kết:
Khí là soái của huyết, huyết dựa vào khí để lưu thông, khí được ôn ấm thì lưu thông dễ dàng kéo theo huyết hành. Cứu làm khí cơ thông sướng, ứ kết lâu ngày được tiêu tán, dinh vệ điều hòa. Trên lâm sàng dùng trị ápxe vú, anh lựu, lao hạch.
Phòng bệnh bảo kiện:
Bí quyết trường sinh của Nhật ghi nhận cứu huyệt túc tam lý có tác dụng phòng bệnh; y học cổ truyền gọi là “bảo kiện cứu”. Cứu dưỡng sinh có thể kích thích chính khí trong cơ thể, nâng cao sức đề kháng, tăng cường tinh lực, trường thọ.
Ngải cứu trong phòng và điều trị
Ngải cứu trong phòng và điều trị
Mồi cứu là phương pháp cứu trị liệu, phạm vi tác dụng là huyệt. Ngải cứu được chế thành ngải nhung hình nón, có kích thước tùy vào mức độ tác động của trị liệu, một mồi cứu khi cháy hết được gọi là 1 tráng. Được chia thành 2 loại: cứu trực tiếp và cứu gián tiếp. Trong khi đó, cứu trực tiếp là mồi cứu đặt trực tiếp lên bề mặt da, còn được gọi là minh cứu, trứ phu cứu, trứ nhục cứu. Cứu gián tiếp là mồi cứu đặt trên một vật chất trung gian như lát gừng, phụ tử, muối.
Lưu ý khi sử dụng ngải cứu:
Không cứu trực tiếp tại các bộ phận nhạy cảm như mặt, ngăn chặn sự hình thành của vết sẹo, ảnh hưởng đến thẩm mỹ.
Da mỏng, ít cơ bắp; bụng của phụ nữ mang thai; phần bụng dưới, núm vú nam và nữ, bộ phận sinh dục… ngoài ra, không cứu trực tiếp tại các khớp.
Trình trạng mệt mỏi quá mức, đói, say rượu, tính khí thất thường hoặc phụ nữ có kinh nguyệt, đổ mồ hôi nhiều.
Một số bệnh truyền nhiễm, hôn mê, sốt cao, co giật hoặc kiệt sức nghiêm trọng như suy dinh dưỡng thể còi.
Những người không có khả năng tự kiểm soát như bệnh nhân tâm thần, bệnh nhân trong cơn động kinh.
Nguồn: thuocnam.edu.vn