Hạt vừng tuy bé nhưng có võ, bên trong hạt chứa nhiều chất dinh dưỡng và có tác dụng phòng chống các bệnh tim mạch, các bệnh về đường tiêu hoá.
- Rau đắng biển – Món rau ngon, vị thuốc quý bạn biết chưa?
- Bất ngờ những công dụng của hoa đậu biếc
- Top 5 tác dụng tuyệt vời để phụ nữ nên ăn hoa chuối
Y sĩ y học cổ truyền mách bạn những bài thuốc chữa bệnh từ hạt vừng
Trong hạt vừng có những thành phần tính chất như thế nào?
Trong y học cổ truyền, vừng có vị ngọt, béo tính bình, không độc, vào 4 kinh phế, tì, gan và thận, có tác động bổ gan và bổ thận, tăng hồng cầu. Rất tốt trong trị táo bón, nhuận gan mật và lợi tiểu.
Thành phần có trong vừng trắng và vừng đen:
- 100mg vừng đen có khoảng 560 calcori, có thành phần như sau: 7,2g nước, 19g protein, 50g lipid, 18g glucid, 780ng photpho, 620mg kali, 1257mg calci, 347mg manhê, 1,1mg đồng, 11,5mg sắt, 3,1mg mangan, 5mg nicotinamid. Ngoài ra còn có lecithin, phytin, cholin.
- 100g vừng trắng có khoảng 587 calori, có thành phần như sau: 7,2g nước, 25g protein, 55g lipid 6,9g glucid, 702mg photpho, 423mg kali, 71mg calci, 220mg manhê, 1mg đồng, 4,3mg sắt, 2,2mg mangan, 6mg nicotinamid.
Mặc dù phân tích hoá học không bắt gặp không giống biệt nhiều giữa thành phần cuả vừng trắng và vừng đen nhưng kinh nghiệm dùng chỉ sử dụng vừng đen với ý nghĩ màu đen đi vào thận cần vừng đen bổ thận.
Tuyển sinh Văn bằng 2 Y sĩ Y học cổ truyền có thể học ngoài giờ hành chính
Một số bài thuốc quý từ hạt vừng chữa bệnh
- Chữa trị táo bón:
Vừng đen bổ thận, sinh tân dịch vừa làm theo trợ nhuận vì bổ âm vừa có chất dầu, chính vì thế chữa báo bón cả gốc lẫn ngọn.
Theo Bác sĩ Y học cổ truyền Sài Gòn cho biết: khi mắc phải táo bón có thể dùng bài thuốc tang ma hoàn gồm vừng đen và lá dâu.
Bài thuốc có cả 2 thành phần đều bổ âm sinh tân dịch. Chất dầu của vừng làm theo phân trơn nhuận, tăng tiết mật, lá dâu làm theo kích thích khả năng tình dục nhu động ruột làm theo phân không đóng tảng.
- Tuân thủ giảm cholesterol máu, phòng chống những bệnh tim mạch:
Tác động rất được, lợi ích tốt nhuận tràng êm dịu, không gây đau thắt như những thuốc nhuận tràng kích thích ham muốn.
Hơn thế nữa vừng còn có chứa 2 loại chất xơ đặc biệt là sesamin và sesamolin thuộc nhóm lignan. Hai chất xơ này đã được chứng minh là có tác động thực hiện giảm cholesterol tại người bệnh, phòng ngừa huyết áp cao và kích thích giảm cân.
Hạt vừng còn có chứa phytosterol một loại hợp chất có cấu trúc hóa học tương tự cholesterol với hàm lượng 400 – 413 mg/100 g, cần phải có chức năng làm giảm cholesterol trong máu.
Hàm lượng magie cao trong hạt vừng cũng cho thực hành giảm và ổn định huyết áp, ngăn chặn những cơn đau tim, đột quỵ.
- Tăng tiết mật, ngừa sỏi mật:
Chất Licithin cuả vừng bổ sung lecithin trong mật, tăng chất lượng mật, cho nhũ hóa cholesterol cần phải không tạo sỏi, đồng thời vừng làm tăng tiết mật cần thiết có chức năng đẩy những sỏi nhỏ vào ruột.
- Bổ xương, chữa thoái hóa khớp:
Chuẩn bị: 100g vừng có 1257mg calci và 3,1mg mangan. Nhưng quan trọng hơn, vừng bổ thận mà thận chủ cốt tủy cần ăn vừng có tác dụng bổ xương.
Bên cạnh đó, vừng có rất nhiều lần mangan tham gia cấu trúc enzym super oxyd dismuthase (SOD), một enzym quan trọng trong liệu trình oxyd hóa, tham gia tái tạo khung sụn. Protein và lipid cuả vừng cung cấp nguyên liệu tổng hợp chondroitin giúp dịch khớp.
Nguồn: Thuốc Nam